Cập nhật lần cuối: 20-09-2023
Tánh Linh là một huyện miền núi nằm ở phía tây bắc tỉnh Bình Thuận, Việt Nam.
Địa lý
Huyện Tánh Linh nằm ở phía tây tỉnh Bình Thuận, trải dài từ 10°50'24"B tới 11°20'56"B, 107°30'50"Đ tới 107°51'21"Đ, mang vị trí địa lý:
Nhìn chung huyện Tánh Linh mang địa hình tốt dần từ Đông sang Tây và từ Bắc vào Nam, được chia thành 4 dạng địa hình chính như sau:
Địa hình núi cao trung bình: Có độ cao từ 1.000 đến 1.600 m phân bố ở phía Bắc huyện giáp sở hữu Tỉnh Lâm Đồng. Bao gồm các ngọn núi Bnom Panghya cao 1478 m, núi Ông (1.302 m), núi Ca Nong (1.270 m), núi Pa Ran (1.205 m)
Địa hình đồi núi thấp: Có độ cao chao đảo từ 200 tới 800 m tập hợp ở phía nam của huyện. Bao gồm các núi Dang Dao cao 851 m, núi Dang dui cao trên 706 m, núi Catong cao 452 m.
Địa hình đồi thoải lượn sóng: Có độ cao từ 20 đến 150 m bao gồm đồi đất xám, đất đổ vàng, chạy theo hướng Bắc -Nam, hoặc xen kẽ các vùng đất thấp.
Dạng địa hình đồng bằng: gồm hai loại
Bậc thềm sông: Có độ cao 2–5 m, với nơi cao 5–10 m, phân bố dọc theo sông La Ngà.
Đồng bằng phù sa: Phân bố ở dọc sông La Ngà và những nhánh suối nhỏ ven Hồ Biển Lạc, là vùng trung tâm lương thực của tỉnh Bình Thuận.
Trong khu vực đất đồng bằng, đất có địa hình trung bình phải chăng và thấp trũng chiếm thể tích hơi lớn, trên địa hình này thuận lợi cho việc tưới nước, song thường hay ngập lụt vào mùa mưa.
Đất đai huyện Tánh Linh hình thành trên giao hội đá má và dòng chất sau:
Đá granit bao phủ một dung tích hơi lớn trên địa bàn huyện Tánh Linh. Đá Granite mang thành phần hóa học mang hàm lượng SiO2 tương đối cao (60-70%), Fe2O3 thấp (0,2-1,4%), chứa đa dạng K2O. Đá bị phong hóa tạo phải khung tích rất thô, gồm với cát silic với mảnh đá vụn trôi thành lớp, nằm theo triền và vây loanh quanh chân núi. Đá granit hình thành ra 3 nhóm đất là đất đỏ vàng, đất xám và đất xói mòn trơ sỏi đá, trong ấy nhóm đất xám và đất đỏ vàng là chủ đạo, mang đặc tính rửa trôi, hoạt tính tốt và thành phần cơ giới nhẹ, chủ yếu là cát pha, giết nhẹ.
Đá sét phát hiện thấy trong lớp vỏ thổ nhưỡng ở Bình Thuận nhắc chung và Tánh Linh đề cập riêng, chiếm khoảng 5-6% thể tích lãnh thổ. Đá sét vô cùng cổ (tuổi Mezôzôi), là nền móng của cương vực nhưng một hầu hết dung tích bị Aluvi Neogen và bazan phủ lấp lên. Đá sở hữu màu thay đổi, chừng độ phong hóa cao. Đất trên đá sét thường với màu đỏ vàng hay vàng nhạt, thành phần cơ giới nhàng nhàng tới nặng, những chất dinh dưỡng khá. Tuy nhiên do phong hóa mạnh cùng với quá trình xói mòn rửa trôi mạnh cần đất thường có tầng mỏng, đa dạng nơi đất trơ sỏi đá hoặc đá non mục nát trơ trên mặt đất.
Mẫu chất phù sa cổ (Pleistocene) chiếm một thể tích không to khoảng 10-15% dung tích vùng nghiên cứu. Tầng dày của phù sa cổ từ 2-3 tới 5-7 mét, nguyên liệu của nó màu nâu vàng, gần lên tầng mặt chuyển sang màu xám. Cấp hạt thường thô tạo cho đất sở hữu cấp hạt cát là chính yếu (cát pha, thịt nhẹ). Các dòng đất hình thành trên phù sa cổ có thành phần cơ giới nhẹ, cùng sở hữu điều kiện nhiệt đới gió mùa, mưa to và tập trung, làm cho cho đất bị rửa trôi mạnh, nghèo dưỡng chất và sở hữu hoạt tính thấp. Nên đông đảo đất hình thành trên phù sa cổ thuộc nhóm đất đỏ vàng và nhóm đất xám.
Phù sa sông, suối là chiếc trầm tích trẻ hơn cả sở hữu tuổi Holocen muộn - hiện đại (QIV). Phù sa thường có màu nâu sẫm đến nâu vàng nhạt, phân bố ko liên tục khiến cho thành các dải hẹp dọc ven các sông suối vùng nghiên cứu. Hình thành trên trầm tích này là nhóm đất phù sa sông La Ngà, bao gồm phần lớn khu vực Ta Pao.
Khí hậu của huyện Tánh Linh khí hậu xavan nên khí hậu huyện mang tính chất chuyển tiếp giữa chế độ mưa của vùng Duyên Hải Nam Trung Bộ và đồng bằng Nam Bộ. Hay đề cập cách khác khí hậu Tánh Linh là vùng đệm giữa trọng điểm mưa lớn của Miền Nam (Cao nguyên Di Linh) và đồng bằng ven biển. Tuy nhiên khí hậu ở đây vẫn diễn biến theo 2 mùa rõ rệt: mùa mưa và mùa khô.
Mùa mưa từ đầu tháng 5 tới đầu tháng 11. các xã phía Tây và phía Nam của huyện như: Suối Kiết, Gia Huynh sở hữu lượng mưa thấp, làng nhàng hàng năm khoảng 1.500–1.900 mm. Ngược lại những xã ở phía Bắc và Đông của huyện mùa mưa từ cuối tháng 4 đến hết giữa tháng 11 mang lượng mưa cao làng nhàng năm 2.185 mm sở hữu khi cao đến 2.894 mm. Mùa mưa cây trồng sinh trưởng và vững mạnh mạnh, đây là mùa sản xuất chính. Tuy nhiên mưa lớn thường tập kết vào các tháng 7, 9 và 10, phải thời gian này thường gây ra lũ quét, ngập úng, tác động to tới phân phối nông nghiệp nhất là các vùng phân phối lúa và cây công nghiệp hàng năm.
Mùa khô từ cuối tháng 11 đến giữa tháng 4 năm sau, thường ít mang mưa buộc phải gây thiếu nước nghiêm trọng, cây cối sinh trưởng và phát triển kém, phổ biến sâu bệnh thúc đẩy đa dạng đến năng suất cây trồng.
Nhiệt độ ko khí cao đều quanh quéo năm và khá ổn định. Nhiệt độ nhàng nhàng năm: 22–26 °C. Tổng tích ôn trung bình năm là 9.300 °C.
Độ ẩm không khí làng nhàng năm 70-85%. Từ tháng 6 đến tháng 12 độ ẩm ko khí 84,3-86,9%. Các tháng 1, 2 và 3 độ ẩm làng nhàng 75,6-76,9%. Hàng năm độ ẩm ko khí làng nhàng cao nhất vào khoảng 91,8%. Độ ẩm nhàng nhàng tốt nhất là 61,3%. Độ ẩm tốt nhất tuyệt đối xuống dưới 15% vào mùa khô
Trên địa bàn huyện có sông La Ngà, là con sông chính lớn nhất của huyện và cũng là nguồn chế tạo nước cốt tử cho cung cấp nông nghiệp trong vùng, là phụ lưu cấp một của hệ thống sông Đồng Nai bắt nguồn từ cao nguyên Di Linh tỉnh Lâm Đồng. Sông La Ngà chảy qua huyện Tánh Linh với chiều dài chừng 50 km, khoảng trống lưu vực khoảng 417,4 km², mực nước làng nhàng năm 11.699-12.163 mm.
Ngoài sông La Ngà còn mang sông Lay Quang dài 30 km, sông Phan, sông Cái, sông Dinh, hồ Biển Lạc, đa dạng hồ và suối nhỏ. Các suối nhỏ chỉ mang nước vào mùa mưa.
Nhìn chung huyện Tánh Linh sở hữu nguồn nước mặt tương đối dồi dào, đảm bảo cung ứng nước cho phân phối nông nghiệp và các hoạt động kinh tế khác. Tuy nhiên do sông, suối, hẹp, ngắn dốc lại chảy qua nhiều địa hình phức tạp bắt buộc vào mùa mưa thường gây ra lũ lụt, ngập úng cục bộ, nhất là những nơi có địa hình thấp, trũng. Hoặc lũ quét, gây khó khăn cho cung ứng và sinh hoạt của người dân.
Với điều kiện tự dưng như vậy, huyện Tánh Linh với các kiểu thảm thực vật chủ yếu sau:
Thảm thực vật rừng tự nhiên: Rừng tự nhiên bao gồm các kiểu sau:
Kiểu rừng lá rộng thường xanh nhiệt đới ẩm gió mùa phân bố cốt yếu ở những vùng núi phía Bắc của huyện.
Kiểu rừng nửa rụng lá nhiệt đới: phân bố ở vùng núi phía Bắc và phía Đông của huyện. Hình thái và cấu trúc kiểu rừng này chiếm tỷ lệ 25-75% cá thể là các loài cây rụng lá.
Kiểu rừng thưa cây lá rộng nhiệt đới: Phân bố ở vùng núi phía Nam và phía Đông của huyện gồm các cây họ đậu, tre nứa,...
Thảm thực vật rừng trồng: chính yếu ở phía nam của huyện gồm các cái như keo lá tràm, bạch đàn...
Thảm cây trồng nông nghiệp: bao gồm cây lúa giao hội cốt yếu ở thung lũng sông La Ngà, cây ăn quả phân bố ở những khu vực bậc thềm sông và xen lẫn trong khu dân cư. Cây công nghiệp như điều, cao su, tiêu,... phân bố tản mát ở các xã trong huyện và ven hồ Biển Lạc.
Lịch sử
Huyện Tánh Linh được có mặt trên thị trường vào ngày 30 tháng 12 năm 1982 do tách ra từ huyện Đức Linh, lúc đấy thuộc tỉnh giấc Thuận Hải, gồm 12 xã: Bắc Ruộng, Đồng Kho, Đức Bình, Đức Phú, Đức Tân, Đức Thuận, Gia An, Gia Huynh, Huy Khiêm, La Ngâu, Nghị Đức, Suối Kiết, Lạc Tánh.
Ngày 28 tháng 11 năm 1983, chia xã Bắc Ruộng thành hai xã lấy tên là xã Bắc Ruộng và xã Măng Tố; chia xã Suối Kiết thành hai xã lấy tên là xã Suối Kiết và xã Gia Huynh.
Ngày 26 tháng 12 năm 1991, thức giấc Bình Thuận được tái lập từ thức giấc Thuận Hải cũ, huyện Tánh Linh thuộc tỉnh giấc Bình Thuận.
Ngày 15 tháng 6 năm 1999, chuyển xã Lạc Tánh thành thị trấn Lạc Tánh, thị trấn huyện lỵ huyện Tánh Linh.
Ngày 1 tháng 1 năm 2020, sáp nhập xã Đức Tân vào xã Măng Tố.[1]
Hành chính
Huyện Tánh Linh với 13 công ty hành chính cấp xã trực thuộc, bao gồm thị trấn Lạc Tánh (huyện lỵ) và 12 xã: Bắc Ruộng, Đồng Kho, Đức Bình, Đức Phú, Đức Thuận, Gia An, Gia Huynh, Huy Khiêm, La Ngâu, Măng Tố, Nghị Đức, Suối Kiết.
>> Mua bán bất động sản Việt Nam: NHÀ ĐẤT BÌNH THUẬN
Nội dung Nhà đất Tánh Linh - Bình Thuận có hữu ích với bạn?